Cá tra, cá basa là loại cá nước ngọt, có nhiều đặc điểm bên ngoài giống nhau nên không phải ai cũng phân biệt được. Nuôi cá tra, cá basa là một trong những nghề đang được phát triển và gặt hái được nhiều thành công, tạo ra hàng hóa xuất khẩu và thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những tiềm ẩn nhiều yếu tố, nguy cơ, bệnh chết hàng loạt ở loài cá này. Vì vậy, vấn đề phòng trị bệnh cũng như ngăn chặn dịch bệnh lây lan là hết sức cần thiết và cấp bách, đòi hỏi người nuôi cá tra phải có kiến thức phòng bệnh và xử lý kịp thời để giảm thiểu tổn thất khi dịch bệnh gây ra.
Tìm hiểu về cá tra và cá basa
Cá tra là cá gì?
Cá tra thuộc bộ siluriformes – cá da trơn, chúng chuyên sống trong các vùng nước ngọt và vẫn có thể sống được ở môi trường nước lợ, cá tra có thân hình chứa nhiều thịt, kích thước đầu nhỏ hơn tỉ lệ cơ thể và có 2 râu.
Thịt cá tra dày và chắc thịt nên khi chế biến thành các món ăn đặc biệt là các món lẩu, món kho, nhúng giấm cuốn bánh tráng,… rất ngon và có mùi vị hấp dẫn.
Cá basa là cá gì?
Cá basa còn có tên gọi là cá sát bụng hay cá giáo, thuộc bộ siluriformes – cá da trơn. Cá basa góp phần trong nền kinh tế ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Cá basa sống tốt ở môi trường nước ngọt, dễ nuôi, sinh sản tốt và trưởng thành nhanh trong môi trường tự nhiên.
Cá basa có thịt dày với lớp mỡ béo và mềm, khi chế biến thành món ăn đều mang lại mùi vị đặc trưng, những món ăn từ cá basa như canh chua cá basa, cá basa nướng hay cá basa kho được nhiều người yêu thích.
Một số bệnh thường gặp ở cá tra và cá basa
Bệnh đốm da, trắng da ở cá
Bệnh này dễ xuất hiện khi cá bị xây xát do đánh bắt, san ao, vận chuyển. Hoặc do nhiệt độ môi trường thay đổi đột ngột và quá cao. Cá bị nhiễm bệnh thường bỏ ăn, gốc vây lưng xuất hiện vết đốm trắng. Sau đó lan dần đến cuống đuôi và toàn thân. Cá bị bệnh nặng thường bơi lờ đờ ngang mặt nước, rồi lộn đầu xuống và chết.
Bệnh này xảy ra rất nhanh nên phát hiện và phòng bệnh sớm là rất cần thiết. Để trị bệnh, cần dùng một số kháng sinh và thuốc điều trị (thế hệ mới) trộn vào thức ăn tự chế biến hoặc nghiền mịn và pha thành dung dịch ngâm thức ăn viên cho cá ăn: Sunfadimezin 5g + Oxytetracyclin 2g/100 kg cá kết hợp trộn vào thức ăn Superfact 250g/100 kg thức ăn. Từ ngày thứ ba, liều lượng giảm 1/2, cá có thể khỏi bệnh sau 5 ngày dùng thuốc.
>>> Tham khảo thêm chuyên mục các bệnh ở thủy sản
Bệnh xuất huyết đường ruột ở cá
Bệnh xuất hiện chủ yếu vào các tháng mùa khô. Cá bị bệnh bụng chướng to, hậu môn lồi, sưng đỏ, vây bụng xung huyết. Cá bơi lờ đờ, tách đàn, biếng ăn. Để phòng bệnh, có thể dùng cỏ mực thái nhỏ và nấu chung với thức ăn tự chế biến cho cá ăn, liều lượng 1 kg cỏ mực + 70 kg thức ăn. Cứ cách 1 tuần cho ăn một lần, nhằm phòng bệnh đường ruột rất tốt. Trị bệnh cho cá nên dùng Sunfathiazon 6g + 0,5g Thiromin/100 kg cá, hoặc Sunfaguanidin 10g/70 kg thức ăn tự chế biến. Cho ăn liên tục 5 ngày liền, từ ngày thứ ba giảm 1/2 lượng thuốc.
Bệnh nấm thủy mi trên cá
Bệnh này gây hại cho cá từ giai đoạn trứng đến trưởng thành. Những ao bị nhiễm bẩn. Nuôi quá dày đều có thể xuất hiện bệnh nấm. Tắm cho cá trong nước muối 2 – 3% hoặc dung dịch thuốc tím 20mg/lít trong 10 – 15 phút. Ao ương nên thay nước sạch thường xuyên để hạn chế sự phát triển của bệnh.
Bệnh trùng bánh xe trên cá tra, cá basa
Đây là bệnh phổ biến ở giai đoạn cá giống. Khi mới nhiễm bệnh, thân cá có lớp nhớt hơi trắng đục. Cá thường nổi và thích tập trung nơi nước chảy. Cá bệnh nặng lờ đờ rồi chìm xuống đáy ao và chết. Không nên nuôi ương cá với mật độ quá dày, giữ môi trường nuôi sạch. Trị bệnh dùng nước muối 2 – 3% tắm cho cá bệnh 5 – 15 phút. Dùng đồng sulfat nồng độ 2 – 5 mg/lít tắm cho cá 10 – 15 phút hoặc phun trực tiếp xuống ao nồng độ 0,5 – 0,7 g/m3 nước. Phối hợp sunphat đồng 0,5g/m3 phun hoặc rắc đều xuống ao, nhằm tiêu diệt trực tiếp trùng bánh xe và ký sinh trên cá.
Bệnh do sán lá ở cá tra, cá basa
Sán thường ký sinh trên mang cá tra, basa cả giai đoạn cá giống và nuôi thịt, gây viêm loét, thối rữa. Có thể dùng lá cây giác đập dập (Cayratia trifolia) và bó thành bó nhỏ treo ở đầu bè để phòng ký sinh sán lá. Ngoài ra có thể dùng vôi bột 5 g/m3 để phòng bệnh. Trị bệnh dùng nước muối 3 – 4% hoặc đồng sulfat 5 – 7g/m3 tắm cho cá 5 – 10 phút. Dùng Formol nồng độ 15 – 20g/m3 (15 – 20 ppm), phun trực tiếp xuống ao.
Bệnh xuất hiện quanh năm, bệnh tới 100%. Giun, sán hút chất dinh dưỡng làm cá chậm lớn và tiêu tốn thức ăn. Phòng trị bệnh đối với cá nuôi bè nên định kỳ 3 tháng một đợt tẩy giun cho cá. Dùng thuốc có gốc piperazin (thế hệ mới) để tẩy giun cho cá, mỗi đợt 3 ngày liên tục.