Tôm hùm là một trong những loại hải sản đem lại nhiều giá trị kinh tế cho người nuôi. Nhưng nuôi tôm hùm không chỉ quan tâm đến thức ăn, xây dựng chuồng trại,… mà người nuôi cần đặc biệt lưu ý một số bệnh thường gặp có thể gây hại cho tôm hùm.
Những năm gần đây, dịch bệnh trên tôm hùm ngày càng gia tăng, làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả nuôi của người dân. Sau đây, mcgdds.com xin giới thiệu một số bệnh phổ biến nhất trên tôm hùm và giải pháp khắc phục hiệu quả.
Bệnh đỏ thân ở tôm hùm
Tác nhân gây bệnh
Tác nhân chính gây bệnh đỏ thân ở tôm hùm bông nuôi lồng tại Khánh Hòa là virus dạng hình cầu, bầu dục (hình 1B), có kích thước khoảng 60 – 80 nm. Ngoài ra, còn gặp một số vi khuẩn như Vibrio spp (Vibrio alginolyticus, V. parahaemolyticus, V. damsela…)
Dấu hiệu bệnh lý
Màu sắc: Mặt bụng của phần lưng tôm bệnh xuất hiện màu đỏ nhạt đến đỏ bầm so với màu sáng “trong” của tôm khỏe. Toàn bộ cơ thể tôm bệnh xuất hiện màu đỏ nhạt đến đỏ bầm khi so với màu “xanh” sáng của tôm khỏe.
Mức độ ảnh hưởng: Tôm bệnh chết rải rác trong thời gian dài.
Biến đổi hình thái bên ngoài: Đôi khi gặp tình trạng phù nề của phần cơ vùng giáp ranh giữa giáp đầu ngực và phần bụng, cơ tôm phình ra ở cuối giáp đầu ngực. Các khớp ở đôi chân bò phù nề và rời ra, đôi râu xúc tu 2 dễ gãy.
Phân bố và lan truyền bệnh
- Mùa vụ: xuất hiện chủ yếu từ tháng 2 – 7 hàng năm;
- Giai đoạn tôm nuôi: Giai đoạn tôm con, khối lượng
- Mật độ tôm nuôi: Ở mật độ nuôi nhỏ hơn 5 con/m2, nguy cơ xuất hiện bệnh đỏ thân thấp hơn so nuôi ở mật độ hơn 5 con/m2;
- Vệ sinh lồng trong quá trình nuôi: Ở nhóm hộ nuôi có vệ sinh lồng, nguy cơ xuất hiện bệnh đỏ thân thấp hơn so với nhóm hộ nuôi không vệ sinh lồng.
Phòng trị bệnh
- Áp dụng biện phòng bệnh tổng hợp: Nuôi mật độ thưa 2, vệ sinh lồng thường xuyên.
- Cho tôm ăn Vitamin và khoáng 7 – 10 ngày/tháng, như dùng 20 – 30 mg Vitamin C/kg thể trọng tôm/ngày.
Bệnh sữa ở tôm
Tác nhân gây bệnh
Giống Rickettsia gây bệnh sữa trên tôm hùm. Hình que hơi cong, chiều dài 1 – 1,5 Micro met, ký sinh nội bào (hình 3 B, C). Giống Rickettsia ký sinh trong cơ và mô liên kết và xâm nhập đến các mô bằng các tế bào máu của tôm. Nhuộm gram Rickettsia bắt màu tím (hình 3A). Quan sát dưới kính hiển vi điện tử Rickettsia có màng tế bào mỏng và bên trong chưa nhiều không bào.
Dấu hiệu bệnh lý
Cơ bụng màu trắng đục (hình 4), nội tạng bị hoại tử. Từ các đầu chân bò chảy ra dịch màu trắng sữa, mùi hôi thối. Tôm bỏ ăn và chết trong vòng 2 – 5 ngày sau khi có dấu hiệu bệnh lý đặc trưng.
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh phân bố trên các loài tôm hùm nuôi lồng, bệnh xuất đầu tiên ở Khánh Hòa năm 1999 sau lan rộng từ Bình Định đến Bình Thuận của ven biển Việt Nam. Tính riêng 10 tháng đầu năm 2007, bệnh sữa trên tôm hùm gây thiệt hại 161 tỷ đồng.
Tôm nhiễm Rickettsia khi sức đề kháng yếu kết hợp với môi trường suy thoái sẽ xuất hiện bệnh sữa trên tôm hùm nuôi trong lồng. Mùa vụ xuất hiện chưa rõ ràng, có thể gặp quanh năm.
Phòng trị bệnh
Hiện nay, có thể dùng kháng sinh tiêm trực tiếp cho tôm hùm nuôi trong lồng để trị bệnh sữa cho kết quả khả quan (theo Đỗ Thị Hòa và Nguyễn Hữu Dũng, 2007).
Dùng Oxytetracyclin tiêm cho toàn bộ tôm trong lồng đã bị nhiễm bệnh, liều tiêm 0,1 ml Oxytetracyclin 20%/kg thể trọng tôm.
Sau đó, cho tôm ăn thuốc bổ 1 – 2 tuần, như dùng 20 – 30 mg Vitamin C/kg thể trọng tôm/ngày.
Bệnh đen mang ở tôm hùm
Tác nhân gây bệnh
Tác nhân gây bệnh đen mang ở tôm hùm bông nuôi lồng tại Khánh Hòa là do nấm Fusarium solani gây ra.
Dấu hiệu bệnh lý
Tôm bị bệnh đen mang, mang có màu nâu đỏ ở những vùng tổn thương, các tổ chức mô tại vị trí này bị phá hủy so mang tôm khỏe. Tại vị trí tổn thương chuyển thành màu đen và lan rộng khắp cả mang, toàn bộ tơ mang bị phá hủy, làm tôm khó thở và thường ngoi lên mặt lồng/bè. Tôm mắc bệnh thường ít hoạt động và có nhiều ký sinh trùng bám trên vỏ làm tôm chậm lớn, màu sắc cơ thể thay đổi do các động vật đơn bào đã quy tụ xung quanh nó chất bẩn hữu cơ và tảo.
Phân bố và lan truyền bệnh
- Mùa vụ: Xuất hiện chủ yếu từ tháng 5 – 9 hàng năm;
- Giai đoạn tôm nuôi: Giai đoạn tôm thương phẩm, khối lượng >145 g/con;
- Mật độ tôm nuôi: Ở mật độ nuôi nhỏ hơn 5 con/m2, nguy cơ xuất hiện bệnh đen mang thấp hơn so với nuôi ở mật độ hơn 5 con/m2\
- Vệ sinh lồng trong quá trình nuôi: Ở nhóm hộ nuôi có vệ sinh lồng, nguy cơ xuất hiện bệnh đen mang thấp hơn so với nhóm hộ nuôi không vệ sinh lồng.
Phòng trị bệnh
Áp dụng biện phòng bệnh tổng hợp: nuôi mật độ thưa
Dùng Formalin 200 – 300 ppm tắm tôm trong 30 – 60 phút, 2 ngày/lần, 3 lần liên tục để hạn chế bệnh đen mang ở tôm hùm bông.
Bệnh long đầu
Dấu hiệu
Quan sát thấy phần giáp đầu ngực và phần thân long ra. Trong lớp biểu bì tiết dịch nhầy hôi thối. Bệnh long đầu xuất hiện ở tôm con và tôm trưởng thành.
Nguyên nhân
Tôm nhiễm vi khuẩn Vibro sp, Aeromonas.
Phòng và điều trị bệnh
- Bắt tôm hùm nhiễm bệnh ra khỏi khu vực nuôi tập trung. Tắm cho tôm trong dung dịch Oxytetracylin với nồng độ 0,5 – 2gr/m3. Thời gian tắm 15 phút. Thời gian chữa trị từ 5 – 7 ngày.
- Kết hợp trộn thuốc kháng sinh Oxytetracylin và dầu ăn với lượng từ 40 – 50mgr/kg thức ăn. Cho ăn liên tục 5 – 7 ngày.
Bệnh đóng rong
Dấu hiệu
Khi tôm hùm bị đóng rong khi bắt tôm hùm người nuôi sẽ cảm nhận thấy vỏ tôm trơn nhớt hoặc có rong, tảo bám vào vỏ tôm hùm. Tôm ít hoạt động, kém ăn chậm lớn, chu kỳ lột xác chậm.
Nguyên nhân
Do độ trong của nước cao làm khả năng xuyên sâu ánh sáng lớn.
Phòng bệnh đóng rong
- Vệ sinh lồng nuôi sạch sẽ, tạo môi trường thông thoáng, mật độ nuôi vừa phải, che mát làm giảm độ trong của nước nhất là vào mùa nắng nóng.
- Bắt những con tôm bị nhiễm bệnh ra khỏi khu vực nuôi tập trung. Tắm cho tôm bằng formol với nồng độ 100 – 200ppm (1 -2 ml formol/10 lít nước), trong thời gian từ 5 – 10 phút