Công nghệ nuôi tôm cá được áp dụng này đã được phát hiện từ 1999 trên mô hình chăn nuôi tôm sú thâm canh và có hiệu quả cao trong việc phòng ngừa bệnh phát sáng do V. harveyi gây ra (Corre và ctv., 2000). Kỹ thuật này được nhiều nhà khoa học quan tâm là nuôi ghép tôm với một những đối tượng khác, chẳng hạn như các loại cá như cá rô phi sẽ giảm được thiệt hại do bệnh lý hoại tử gan tụy cấp. Theo các chuyên gia đã nghiên cứu và đánh giá, nuôi tôm kết hợp cá rô phi đã qua xử lý là mô hình bền vững vừa đem lại nhiều hiệu quả vừa bảo vệ môi trường nước. Mô hình này đã và đang được các hộ ở ấp Vĩnh Điền (xã Long Điền Đông, Đông Hải) triển khai mở rộng.
Mô hình nuôi kết hợp tôm cá đem lại nhiều lợi ích
Ở Trung Quốc, các nhà khoa học chứng minh rằng, nuôi kết hợp tôm cá sẽ cải thiện môi trường nước; tăng hàm lượng ôxy, giá trị COD và số lượng vi khuẩn trong nước của ao; nuôi ghép thấp hơn so với nuôi đơn canh. Kết quả phân tích chỉ số các chất hữu cơ; trong nước của các hệ thống nuôi ghép giảm đáng kể so với nuôi đơn. Sự tích tụ của N và P; trong lớp trầm tích của ao nuôi ghép là 39,76% và 51,26%.
Thấp hơn so nuôi đơn và số lượng vi khuẩn trong lớp trầm tích; thấp hơn 7,63% (Tian và ctv., 2001). Indonesia đã áp dụng mô hình tôm – cá rô phi; Thái Lan đã áp dụng mô hình tôm – cá măng và cua lột. Philippines đã áp dụng mô hình nuôi tôm; kết hợp cá rô phi giúp giảm bệnh. Ở Ecuador nuôi cá rô phi kết hợp với tôm trong ao; đã giảm được những thiệt hại do hội chứng Taura và cải thiện tốc độ tăng trưởng.
Cá rô phi có thể làm giảm sinh khối tảo tàn; trong ao nuôi và tái chế những vật chất này thành chất dinh dưỡng một cách hiệu quả. Với tập tính đảo trộn các tầng nước trong ao; giúp đáy ao và nguồn nước ao nuôi tốt hơn. Cá rô phi cũng ăn mùn bã hữu cơ trong ao. Từ đó, giúp giảm lượng chất thải trong ao nuôi, hạn chế sự phát triển của vi khuẩn có hại; kích thích sự phát triển các loại tảo có lợi (Kiều Ngọc Hà, 2013).
Tôm sú hoặc TTCT là đối tượng cùng cá rô phi được áp dụng nuôi
Theo các hộ nuôi, tôm sú hoặc TTCT là hai đối tượng cùng cá rô phi; được áp dụng nuôi trong mô hình. Hình thức gồm nuôi mật độ thưa, nuôi xen ghép cá rô phi trong ao tôm, ương san, thả nuôi cuốn chiếu (thả giống từng đợt). Việc thả cá rô phi nhằm xử lý nguồn nước; tránh ô nhiễm môi trường, hạn chế dịch bệnh lây lan từ bên ngoài vào ao nuôi.
Đối với tôm sú, thời gian nuôi thường kéo dài từ 5 – 6 tháng. Mật độ thả: 20 – 30/m2. Năng suất thu hoạch đạt từ 3,0 – 3,5 tấn/ha. Người nuôi có lợi nhuận từ 200 – 300 triệu đồng/ha, cá biệt có hộ đạt năng suất 6 tấn/ha, lợi nhuận trên 500 triệu đồng.
Đối với TTCT, thời gian nuôi ngắn hơn (từ 3 – 3,5 tháng). Mật độ thả dày hơn tôm sú (từ 50 – 100 con/m2). Năng suất thu hoạch đạt từ 6 – 10 tấn/ha. Lợi nhuận người nuôi thu được từ 400 – 600 triệu đồng/ha/vụ, cá biệt có hộ đạt năng suất trên 10 tấn/ha/vụ, lợi nhuận từ 500 – 600 triệu đồng/ha.
Theo đánh giá của nhiều nông dân khi áp dụng, Cá rô phi có thể sống ở cả môi trường nước ngọt, nước lợ lẫn nước mặn. Thức ăn chủ yếu của chúng là các loại thực vật gồm tảo sợi, tảo đơn bào, rong cỏ, mùn bã hữu cơ và một số động vật nhỏ.
Kết luận
Mô hình nuôi tôm kết hợp cá rô phi vừa giúp tiết kiệm chi phí, vừa tạo ra nguồn nước đảm bảo cho tôm nuôi. Từ hiệu quả của mô hình này, ngành chức năng và các địa phương trong tỉnh đang khuyến cáo nhân rộng trong các hộ nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh.
Xem thêm những bài viết cùng chuyên mục: Tại đây