Ốc hương là loại ốc được nhiều người yêu thích trong các loại ốc. Có hàm lượng dinh dưỡng cao và dễ tiêu hóa, tốt cho sức khỏe. Hầu hết các quán ốc từ lớn đến nhỏ, đều có món ốc hương được chế biến đa dạng. Bởi vậy, số lượng tiêu thụ của ốc hương khá lớn. Người dân theo nghề nuôi ốc hương ngày càng nhiều, và đang dần phát triển. Tuy nhiên, ký sinh trùng gây bệnh trên ốc hương khiến ốc hương chết hàng loạt nếu không được phòng bệnh sớm. Làm cho nghề nuôi ốc hương bị giảm năng suất. Mời bạn đón đọc để tìm hiểu về cách phòng bệnh nhé.
Nguồn gốc của ốc hương
Ốc hương (danh pháp khoa học: Babylonia areolata) là một loài động vật thân mềm thuộc họ Babyloniidae sống ở vùng biển nhiệt đới, phân bố chủ yếu ở biển Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, độ sâu từ 5 – 20 m, sống tại chất đáy cát hoặc bùn cát pha lẫn vỏ động vật thân mềm. Đây là loài nhuyễn thể chân bụng quen thuộc không chỉ với người dân miền biển mà cả với những người ở vùng khác vì thịt ốc hương rất ngon, nó còn là nguồn nguyên liệu để làm những món ăn ngon và có giá rất cao trên thị trường.
Đặc điểm sinh hoạt của ốc hương
Ốc hương thuộc loại ốc xoắn, vỏ màu vàng điểm các chấm nâu. Phân bố khắp các miền cận biển với đáy cát pha bùn. Kích cỡ cá thể lớn nhất dài không quá 10cm và nặng khoảng 60g. Nhìn bề ngoài, ốc hương có màu lốm đốm xanh trắng vàng rất sạch đẹp.
Thức ăn của loài ốc hương là mùn bã lắng đọng ở đáy biển và xác thối rữa của các loài thủy sản. Ngoài ra thức ăn của ốc hương còn là động vật. Nó thích ăn các loài động vật thân mềm có 2 mảnh vỏ (trai, sò, nghêu…) và các loài giáp xác (tôm, cua, ghẹ…). Mỗi ngày nó ăn một lượng thức ăn khoảng 12% so với trọng lượng cơ thể của nó. Ở đáy biển, ốc hương sống rải thưa từng đôi một, nhưng khi gặp mồi thì họp đàn dày đặc bu quanh miếng mồi để rúc tỉa.
Có thể bạn chưa biết
Ốc hương thuộc loại ốc xoắn, vỏ màu vàng điểm các chấm nâu; phân bố khắp các miền cận biển với đáy cát pha bùn; kích cỡ cá thể lớn nhất dài không quá 10cm và nặng khoảng 60g. Nhìn bề ngoài, ốc hương có màu lốm đốm xanh trắng vàng rất sạch đẹp.
Tên gọi ốc hương vì nó được gọi tên theo mùi của ốc ngay cả khi tươi sống đã tỏa ra hương thơm tự nhiên, hấp dẫn và tỏa ra hương vị hấp dẫn khi được nấu chín. Ốc hương chỉ cần luộc không cần thêm gia vị nhưng mùi ốc hương lại bốc thơm như lá dứa, ngát như hoa ngâu, gay gay như riềng.
Thịt ốc hương giòn ngọt, lúc nào cũng tươi, dai, không bở; Đặc biệt ốc rất bổ dưỡng cho sức khỏe con người, thịt ốc có hàm lượng dinh dưỡng cao. Ốc cung cấp nhiều calo, các loại vitamin B không thể thiếu cho hoạt động của não và hệ thần kinh. Ốc không có cholesterol nhưng lại dễ tiêu.
Nguyên nhân gây bệnh lên ốc hương
Những năm gần đây, ghi nhận nhiều trường hợp ốc hương chết hàng loạt là do trùng lông ký sinh ở mang, chân, ống hút và thường gặp ở giai đoạn con non và con trưởng thành. Là loài có hình dạng giống như cầu gai, tuy nhiên kích thước rất nhỏ, không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Điều đáng lo ngại là hiện tượng xảy ra phổ biến ở các trại sản xuất giống, ao và lồng nuôi thương phẩm ốc hương. Ốc bò lên bề mặt nền đáy bể hoặc lồng nuôi, bò ăn và chết rất nhanh sau 1 đến 2 ngày, đặc biệt với ốc giai đoạn ương giống. Không được phòng bệnh đúng cách.
Theo các nhà nghiên cứu, trùng lông trên các mẫu ốc gây bệnh với cường độ cảm nhiễm cao và gặp hầu hết ở các mẫu phân tích và nó có tên là Ciliophora. Đây là loài thuộc nhóm các động vật nguyên sinh được đặc trưng bởi sự hiện diện của các bào quan có hình dạng giống tóc gọi là lông tơ, tương tự với cấu trúc của tiêm mao nhưng ngắn hơn và có số lượng nhiều hơn với hình dạng lượn sóng hơn tiêm mao.
Lông bơi hoạt động giúp cơ thể di chuyển, đưa thức ăn vào miệng, loại bỏ chất cặn bã trong quá trình trao đổi chất và các chất cặn bẩn bám trên cơ thể của chúng. Ngoài ra, chúng còn tạo nên lớp nước giàu ôxy bao bọc quanh cơ thể. Lông bơi của một số loài còn liên kết với nhau để tạo thành màng uốn, màng lông và gai nhảy.
Tìm dấu hiệu gây bệnh ở ốc hương
Bệnh xảy ra ở hầu hết các trại sản xuất giống cho đến lồng nuôi thương phẩm. Đầu tiên, trùng lông đã tấn công vào vòi lấy thức ăn. (cơ quan tiêu hóa) và ống xi phông (cơ quan hô hấp) của ốc. Làm cho hai cơ quan này sưng lên, gây tổn thương, tạo cơ hội cho vi khuẩn. Và nấm tấn công vào chỗ tổn thương, từ đó ốc lấy thức ăn không được, khó thở, rồi chết.
Một số biểu hiện đi kèm khi ốc bị bệnh như: ốc có dấu hiệu kém ăn dần, phơi mình trên nền đáy, ít vùi đáy; ống xi phông và vòi lấy thức ăn bị sưng, bên trong có nhiều chấm đỏ; chân bụng phồng và có bọng nước. Ngoài ra, cùng với đó là sự tác động của một số tác nhân gồm vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng phát triển trong điều kiện môi trường nước bị ô nhiễm là nguyên nhân chính gây chết trực tiếp đối với ốc hương.
Phòng bệnh cho ốc hương
Hiện, các phương pháp điều trị chưa có hiệu quả cao, vì vậy, phòng bệnh là giải pháp chính. Tuyệt đối không nên khai thác giống tự nhiên và vận chuyển từ xa về nuôi vì sẽ gây bệnh. Không đảm bảo sức khỏe, dễ bị nhiễm khuẩn và chết do vận chuyển, làm lây lan và truyền bệnh.
Người nuôi cần chú trọng đến nguồn giống và chất lượng giống nuôi. Thả giống đúng kích cỡ (theo khuyến cáo, kích cỡ giống tối thiểu đạt 8.000 – 10.000 con/kg; mật độ thả thích hợp 500 – 1.000 con/m2). Không nên thả giống còn quá nhỏ chưa qua kiểm dịch của cơ quan thú y.
Thức ăn cho ốc hương phải đảm bảo chất lượng, vệ sinh
Thức ăn sử dụng là tôm, cá tạp, phải đảm bảo độ tươi. Không có mùi ôi thối, không bị dập nát, được vệ sinh sạch sẽ. Không có hóa chất bảo quản. Không mang mầm bệnh đối với ốc. Sau mỗi lần cho ăn, kiểm tra vệ sinh lưới lồng, nền đáy. Kết thúc mỗi đợt nuôi cần cải tạo kỹ nền đáy. Trong quá trình nuôi, định kỳ sử dụng vôi bột với liều lượng 10 – 30 ppm. Ngoài ra, cần thường xuyên bổ sung một số loại Vitamin C, B1… vào thức ăn để giúp ốc sinh trưởng nhanh, kháng bệnh tốt.
Giám sát và kiểm tra thường xuyên tránh gây bệnh cho ốc
Người nuôi cần chủ động phòng bệnh. Kiểm tra, theo dõi các yếu tố môi trường như pH, độ mặn, ôxy hòa tan để có biện pháp xử lý thích hợp, kịp thời nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ốc, đặc biệt chú ý yếu tố nhiệt độ và độ mặn. Trường hợp khi môi trường thay đổi, nguồn nước có sự biến động. Hay xáo trộn các chỉ tiêu lý hóa cần di chuyển lồng đến khu vực an toàn hơn. Khi phát hiện có sự cố, hiện tượng ốc chết người nuôi cần chủ động thông báo. Cho cán bộ nuôi trồng thủy sản ở địa phương để xử lý kịp thời.
Khi phát hiện ốc có biểu hiện kém ăn và chết rải tác, người nuôi cần loại bỏ ngay lập tức. Có biện pháp tiêu hủy hợp lý, không vứt bừa bãi gần khu vực nuôi, gây bệnh. Ảnh hưởng xấu đến chất lượng môi trường nước tại đó.
Bên cạnh đó, có thể nuôi ghép với một số đối tượng khác. Vừa tận dụng diện tích mặt nước, vừa để xử lý, cải thiện môi trường nước ao nuôi. Các đối tượng có thể nuôi ghép với chúng như cá dìa, rong câu, rong nho, tu hài, hải sâm…