Thực hiện theo Kế hoạch số 101/KH-UBND của UBND tỉnh Thanh Hóa về việc hành động phát triển ngành nuôi tôm tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025; những địa phương ven biển như: Nga Sơn, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Quảng Xương… Đã chú trọng trong việc định hướng cho ngư dân lựa chọn hình thức và kỹ thuật chăn nuôi tôm phù hợp với từng vùng nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế về điều kiện tự nhiên, đồng thời sử dụng hiệu quả đất đai vùng triều.
Thời gian gân đây, để từng bước chuyển từ mô hình nuôi quảng canh sang nuôi thâm canh, các huyện Nga Sơn, Hậu Lộc, Quảng Xương, Hoằng Hóa… đã huy động các nhà đầu tư xây dựng các khu vực nuôi tôm tập trung, áp dụng nuôi tôm theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhiều hộ nuôi đã mạnh dạn đầu tư những mái che, áp dụng công nghệ Biofloc, nuôi TTCT thương phẩm tận dụng bể xi măng. Điều đó cho năng suất cao hơn 20 – 30% so hình thức nuôi bình thường…
Mô hình nuôi tôm theo công nghệ Semi – Biofloc
Để nuôi tôm theo công nghệ này các ao nuôi được đầu tư lót bạt nền đáy; và bờ ao kết hợp hệ thống xiphong tự động. Ngoài ra, khu nuôi có ao chứa nước và ao xử lý chất thải; nước để nuôi được bơm vào bể lọc, sau đó đưa vào ao lắng đất; rồi đưa vào ao lắng bạt để xử lý. Ngoài hệ thống công trình ao nuôi, các hộ dân còn đầu tư các khu nuôi cấy; vi sinh dùng hỗn hợp nước, mật rỉ đường, vi sinh… tạo Biofloc trong thùng phuy để đưa xuống ao nuôi. Sau đó, chạy quạt; và sục khí để Biofloc phát triển và ức chế vi sinh vật gây bệnh…
Mô hình an toàn, hiệu quả hơn và mang tính bền vững cao
Theo các hộ thực hiện mô hình, đây là yếu tố quan trọng; để giúp tôm nuôi sinh trưởng và phát triển; do đó, chi phí đầu tư khoảng hơn 1 tỷ đồng/ha. Là một trong những hộ nuôi thực hiện theo mô hình này; ông Lê Văn Phượng (thôn Châu Triều, xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hóa) cho biết, mặc dù chi phí cao nhưng quy trình này giúp người nuôi an toàn, hiệu quả hơn và mang tính bền vững cao.
Tôm nuôi mau lớn, kiểm soát được dịch bệnh; sản phẩm đảm bảo ATTP. Mô hình này sử dụng thức ăn công nghiệp và chế phẩm sinh học để bổ sung vào thức ăn; quản lý môi trường ao nuôi. Tôm nuôi sau khoảng 2,5 – 3 tháng là thu hoạch, đạt cỡ 40 – 55 con/kg; giá bán khoảng 170.000 – 180.000 đồng/kg, cao hơn giá tôm nuôi truyền thống. Nhờ tôm lớn nhanh, kiểm soát được dịch bệnh; mỗi năm trang trại nuôi được 3 vụ.
Thành thạo kỹ thuật thì mức độ thành công càng cao
Cũng nuôi tôm bằng công nghệ Semi-Biofloc, dịp tết Nguyên đán vừa qua, anh Nguyễn Tất Tùng, ở xã Cát Minh, huyện Phù Cát, thu hoạch gần 380 tấn tôm; từ 19 ao nuôi/khoảng 8 ha ở Đề Gi (xã Cát Khánh, huyện Phù Cát), năng suất bình quân khoảng 47 tấn/ha. Anh Tùng cho biết: Tôi theo đuổi công nghệ Semi-Biofloc trong vài năm gần đây, càng về sau khi thành thạo kỹ thuật; thì mức độ thành công càng cao.
Nhiều năm gần đây, ở vụ nuôi tôm chính, rủi ro lớn nhất là tôm bị dịch bệnh. Nhất là bệnh nấm trắng. Việc xử lý ao nuôi trước khi thả giống; và giữ môi trường nước ao nuôi ổn định để hạn chế rủi ro rất công phu. Và công nghệ Semi-Biofloc không những đã giải quyết tốt vấn đề này. Làm sạch, ổn định môi trường nước bằng các loại vi tảo mà cách thức thực hiện cũng khá đơn giản. Nằm trong khả năng của người nuôi tôm. Ở trường hợp của anh Nguyễn Tất Tùng, để giữ nhiệt độ trong ao ổn định; anh Tùng phủ bạt kín diện tích ao nuôi.
Anh dùng mật rỉ đường, cám gạo ủ; với chế phẩm sinh học để nhân sinh khối hỗn hợp và bón vào ao nuôi. Vi sinh vật có lợi trong chế phẩm không những đã tiêu diệt các loại vi khuẩn, tảo độc… có hại, gây bệnh cho tôm mà còn làm sạch môi trường nước; nhờ khả năng phân hủy các loại sinh khối hữu cơ, phân, thức ăn thừa… và biến chúng thành thức ăn cho tôm.
Mô hình nuôi tôm siêu thâm canh gồm 3 giai đoạn
Theo tìm hiểu thực tế tại các vùng nuôi tôm công nghiệp; ở các huyện Hoằng Hóa, Quảng Xương, thị xã Nghi Sơn, khác với việc nuôi tôm theo cách thông thường; chỉ có 1 giai đoạn (con giống mua về được thả thẳng xuống ao nuôi), mô hình nuôi tôm siêu thâm canh; gồm 3 giai đoạn nuôi (trong đó, có 2 giai đoạn ương và 1 giai đoạn nuôi thương phẩm).
Theo đó, hệ thống ao nuôi được thiết kế tới 3 ao, gồm: ao ương giai đoạn 1, ao ương giai đoạn 2 và ao nuôi thương phẩm. Ngoài ra, còn có 1 hệ thống xử lý nước đầu vào; và 1 hệ thống xử lý chất thải, nước thải. Ao ương giai đoạn 1 là bể xi măng, được đặt trong nhà màng; ao ương giai đoạn 2 và ao nuôi thương phẩm giai đoạn 3 là dạng ao đất được lót bạt 100%; hoặc các bể nổi được thiết kế hình tròn khung sắt lót bạt HDPE xung quanh.
Với mô hình này tôm nuôi đạt tỷ lệ sống chung; cho cả quá trình sản xuất đạt mức cao là 80%, trong khi nuôi thông thường chỉ đạt tỷ lệ sống bình quân 65 – 70%. Người nuôi quay vòng vụ nuôi nhanh nên có thể nuôi đến 4 – 6 vụ/năm; (bình quân tổng sản lượng 160 – 180 tấn/ha/năm), cao hơn khoảng 2 – 3 lần so với phương pháp nuôi tôm 2 giai đoạn và cao hơn về năng suất; sản lượng trên cùng diện tích nuôi.
Mô hình nuôi tôm theo vụ đông
Trong những năm qua người dân một số tỉnh thành khu vực phía Bắc nói chung và tỉnh Thanh Hóa nói riêng đã đầu tư hệ thống ao nuôi lót bạt và phải có mái che toàn bộ ao nuôi để thực hiện mô hình nuôi tôm vụ đông. Điển hình là mô hình của anh Lê Văn Hùng (xã Hoằng Trường, huyện Hoằng Hóa).
Theo đó, anh đã đầu tư 7 ao lót bạt trên diện tích gần 1,5 ha; mỗi ao khoảng 1.000 – 2.000 m2, không dùng mái che, sử dụng chế phẩm sinh học; để bổ sung các vi khuẩn có lợi giúp tôm sinh trưởng tốt, hạn chế những độc tố, ức chế vi khuẩn có hại, bảo vệ sức khỏe tăng cường đề kháng.
Anh Hùng cho biết, với ao nuôi 1.000 m2 anh thả mật độ 300 – 350 con/m2, sau 4 tháng thả nuôi tôm đã đạt cỡ 50 – 60 con/kg, dự kiến sản lượng có thể đạt 4 tấn/ao, với giá bán dao động 190.000 – 200.000 đồng/kg; sau khi trừ chi phí anh có thể thu về khoảng 350 – 400 triệu đồng/ao.
Xem thêm những bài viết cùng chuyên mục: Tại đây